Với các loại văn bản đa dạng mà người học được tiếp cận trong quá trình học tập ở cấp THCS, văn nghị luận là phương pháp, còn văn nghị luận là dạng văn bản phổ biến và hữu ích nhất, ý nghĩa vô cùng quan trọng. Văn luận luận là loại văn bản được chú trọng vì nó thể hiện cái tôi của tác giả lớn, thể hiện sự sâu sắc, sắc bén và cách tiếp cận vấn đề của tác giả, có khả năng tác động đến tư duy và định hướng cách suy nghĩ của người đọc. Yêu cầu quan trọng nhất của một bài văn nghị luận là tính thuyết phục.
Nghị luận là gì?
Diễn ngôn là một phương pháp hoặc hình thức văn bản tồn tại với nội dung chính đề cập đến đối tượng khác, có thể là tác phẩm văn học, cá nhân, chính trị hoặc xã hội, nhằm cung cấp cho người đọc những lập luận và bằng chứng thuyết phục.
Bài văn nghị luận là gì?
Ở nước ta, viết tùy bút là một thể loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng to lớn trong giai đoạn lịch sử lâu dài, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có thể là Chiêu dời đô (1010) của Lý Công Uẩn, tướng Hịch (1285) của Trần Quốc Tuân đến Bình Ngô Đại Cao (1428) của Nguyễn Trãi… quan trọng hơn và trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hàng loạt tên tuổi các chính trị gia lỗi lạc cùng các tiểu luận với những lý lẽ bất hủ, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tuyên ngôn Độc lập (1945).
Bên cạnh đó còn có các nhà lý luận chính trị lỗi lạc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh… tiếp theo là các nhà cách mạng, nhà văn hóa như Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng… nhiều nhà văn nổi tiếng như Hải Triều, Đặng Thái Mai, Hoài Thanh… Có thể nói, xuyên suốt lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một hình thức viết phản ánh đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí tốt đẹp hơn và khát vọng. của cả dân tộc ta. Có thể nói, văn học tranh luận ngày càng phát triển mạnh mẽ, đa dạng và phong phú hơn bao giờ hết.
Về khái niệm văn học tranh luận, trong cuốn Làm văn xuôi của Đỗ Ngọc Thông chủ biên, các tác giả đã đưa ra khái niệm văn học tranh luận như sau: “ Văn học nghị luận là thể loại nhằm phát triển tư tưởng, tình cảm, thái độ. Quan điểm này liên quan trực tiếp đến văn học, chính trị, đạo đức, lối sống… nhưng được trình bày bằng ngôn ngữ rõ ràng, hùng hồn, pháp luật chặt chẽ, nhất quán và thuyết phục”.
Theo Lê A: “Diễn văn là việc sử dụng quan điểm, lập luận của bản thân để thảo luận, bày tỏ suy nghĩ, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về văn học, chính trị, văn hóa, đạo đức. , một lối sống để thuyết phục người khác”. Vì vậy, tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng nhìn chung các tác giả đều có một điểm chung khi đưa ra khái niệm văn nghị luận: đó là loại văn bản sử dụng lập luận, lập luận để thuyết phục người đọc, người nghe về một chủ đề. hoặc quan điểm.
Bố cục luận văn
Bố cục của một bài văn nghị luận cũng tương tự như một bài văn thông thường, có mở bài, thân bài và kết luận.
+ Giới thiệu: giới thiệu chủ đề chính hoặc câu hỏi cần làm rõ
+ Nội dung: Triển khai, cụ thể hóa đối tượng và các vấn đề trọng tâm nêu trong phần mở đầu bằng hệ thống ý tưởng được sắp xếp hợp lý.
+ Kết luận: giải quyết vấn đề, đưa ra những suy ngẫm và bài học cho bản thân.
Tùy theo vấn đề, đối tượng cần thuyết phục và lập luận mà người viết có thể sắp xếp theo các sơ đồ khác nhau. Việc sắp xếp phải linh hoạt nhưng cũng phải tôn trọng một số quy tắc nhất định:
+ Ý tưởng lớn phải ngang nhau và làm rõ được câu hỏi trọng tâm.
+ Ý tưởng nhỏ được đưa vào ý tưởng lớn và làm rõ ý tưởng lớn, phải trình bày tránh trùng lặp ý tưởng.
+ Phải xác định được mức độ hợp lý của ý tưởng. Trong một bài luận, các ý tưởng không phải lúc nào cũng ngang nhau và được trình bày như nhau, một số cần phải chi tiết, một số chỉ cần nói, đủ để nói.
Nội dung và cấu trúc của một bài văn nghị luận được hình thành từ các yếu tố cơ bản: vấn đề luận đề (ces), luận đề, luận cứ và luận cứ.
– Luận đề của bài luận là vấn đề hàng đầu cần được làm rõ, bàn luận, bảo vệ và chứng minh xuyên suốt bài viết. Vì vậy, trong nhiều bài luận, luận đề được nêu trực tiếp ở tiêu đề của bài viết. Ví dụ: Tinh thần yêu nước của dân tộc ta (Hồ Chí Minh), Sự giàu có và vẻ đẹp của tiếng Việt (Đặng Thái Mai)…
– Luận điểm đề cập đến “những ý, quan điểm chủ yếu được thể hiện trong bài văn nghị luận. Luận đề thường được thể hiện dưới dạng phán đoán nhằm khẳng định tính chất, tính chất của vấn đề, các mặt nội dung được triển khai để làm sáng tỏ luận điểm. Các luận cứ của luận văn được tổ chức, trình bày có hệ thống hợp lý, đầy đủ và được phát triển với các luận cứ, dẫn chứng hợp lý để làm rõ vấn đề mà luận án đặt ra.
Luận cứ là những bằng chứng cụ thể (bằng chứng).
– Luận cứ (hay Luận cứ) là “việc tổ chức các lập luận và lập luận, lập luận và dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, để người đọc hiểu, tin, đồng ý với những gì người viết tiến tới và giải quyết ”.
Bài kiểm tra được chia thành:
– Bình luận xã hội: Luận về một sự kiện, hiện tượng trong cuộc sống: Trình bày quan điểm, suy nghĩ, thái độ (khẳng định hay tiêu cực, tích cực hay phê phán) về một sự kiện nào đó xảy ra trong kiếp trước (gia đình, trường học, Công ty…).
Diễn ngôn về vấn đề tư tưởng đạo đức: Trình bày những suy nghĩ, thái độ liên quan đến một lối sống tư tưởng, đạo đức, văn hóa… được hình thành trong đời sống con người. Những quan niệm này thường được thể hiện dưới dạng quan điểm, khẳng định, đánh giá cao… mang tính chất khiển trách (tục ngữ, ca dao, trích dẫn, phán xét…).
– Tiểu luận văn học: Trình bày nhận xét, cảm nhận thông qua cảm nhận, phân tích nhân vật văn học. Phản hồi đến từ cách tác giả xây dựng nhân vật (ngoại hình, tính cách, hành động…) hay nét độc đáo về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Các bước viết một bài văn nghị luận
Nói chung, quá trình tạo văn bản bao gồm bốn giai đoạn liên tiếp: định hướng, lập trình biểu thức (phác thảo), tạo văn bản và xác minh và chỉnh sửa văn bản (bản nháp). Quá trình này được tiến hành khi tác giả được yêu cầu cung cấp một đồ án luận văn có sẵn tại trường.
– Định hướng: là khâu người viết xem xét, phân tích chủ đề, trên cơ sở đó xác định chủ đề của bài viết, thể loại văn bản và định hướng sưu tầm tài liệu cũng như phạm vi giới hạn của tài liệu sử dụng . Ở bước này, người viết phải thực hiện các thao tác cụ thể: xem xét, phân tích chủ đề đã cho để xác định cụ thể chủ đề liên quan; Đặt loại văn bản. Ở giai đoạn này, người viết phải xác định rõ loại văn bản nào sẽ được viết, theo phong cách nào; xác định hướng thu thập vật liệu và giới hạn phạm vi vật liệu. Tư liệu có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn: báo, sách, các phương tiện truyền thanh, truyền hình hoặc từ thực tế sống động của người viết.
Lập trình cách diễn đạt: đây là giai đoạn người viết nghĩ đến việc phát triển, cụ thể hóa chủ đề ở các khía cạnh chuyên đề ở nhiều cấp độ, kết hợp với việc thu thập các tài liệu cần thiết, trên cơ sở chọn lọc, sắp xếp lại dàn ý của bài viết một cách mạch lạc. hệ thống các ý tưởng lớn và nhỏ. Ở giai đoạn này, người biên tập phải thực hiện các thao tác cụ thể: động não để từng bước phát triển chủ đề tổng thể thành các chủ đề phụ; Lựa chọn và sắp xếp các chủ đề của bộ phận và các tài liệu liên quan theo kế hoạch cụ thể. Ở giai đoạn này, cần đặc biệt chú ý đến việc lựa chọn, sắp xếp các chủ đề phụ và tài liệu liên quan theo một trình tự hợp lý, các ý lớn và nhỏ phải đảm bảo tính hệ thống và thống nhất.
– Tạo văn bản: đây là giai đoạn người viết vận dụng kiến thức về từ, câu, đoạn văn để chuyển dàn ý thành văn bản (đây được coi là bản nháp). Lúc này người viết vận dụng kiến thức của mình về đoạn văn để lần lượt thể hiện hệ thống ý ở các phần, đoạn văn cụ thể.
– Kiểm tra và sửa chữa bản thảo: đây là công đoạn người biên tập đọc lại bản thảo, phát hiện sai sót và sửa chữa để bài viết hoàn thiện hơn. Ở giai đoạn này, người viết đọc lại, suy nghĩ, phản ánh, xác định lỗi và sửa chữa. Cụ thể là phát hiện và sửa các lỗi như lỗi kiến thức, lỗi chính tả, lỗi từ, lỗi ngữ pháp, lỗi liên kết văn bản.